Hành vi ngoại tình trong hôn nhân hay còn được hiểu là hành vi vi phạm nghĩa vụ chung thủy trong hôn nhân, gây ra các tác động xấu đến cuộc sống hôn nhân, tuy nhiên không phải hành vi ngoại tình nào cũng cấu thành tội phạm theo quy dịnh Bộ luật Hình sự.
Chiếu theo Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân & gia đình thì
Nghiêm cấm hành vi người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.
Như vậy, biểu hiện rõ ràng của hành vi ngoại tình phải là “kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác” ngoài hôn nhân của mình. Chiếu theo khoản 3 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25 tháng 9 năm 2001 của bộ tư pháp – bộ công an – toà án nhân dân tối cao – viện kiểm sát nhân dân tối cao số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25 tháng 9 năm 2001 về việc hướng dẫn áp dụng các quy định tại chương XV “các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” của bộ luật hình sự năm 1999 quy định như sau:
“Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…”
Khi xác định có hành vi vi phạm thì người vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính theo Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP về xử phạt hành chính lĩnh vực hôn nhân gia đình
Điều 59. Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn.
2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
b) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi;
c) Cưỡng ép kết hôn hoặc lừa dối kết hôn; cưỡng ép ly hôn hoặc lừa dối ly hôn;
d) Lợi dụng việc kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình;
đ) Lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân.
3. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các điểm d và đ khoản 2 Điều này.
Người vi phạm khi đã bị xử phạt hành chính về hành vì này hoặc thực hiện hành vi gây ra hậu ra quả nghiêm trọng thì có thể cấu thành tội phạm về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định tại Điều 182 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 khi có những dấu hiệu cần và đủ, đặc trưng cho tội phạm.
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Trong đó:
- Mặt chủ quan của tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội biết rõ hành vi của mình là trái với chế định bảo vệ chế độ một vợ, một chồng nhưng vẫn cố tình thực hiện. Và họ ý thức được hậu quả của hành vi này sẽ gây ra hậu quả xấu cho mối quan hệ hôn nhân;
- Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, chủ thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng có đặc trưng về điều kiện chủ thể là hai chủ thể thực hiện hành vi phạm tội bắt buộc một bên hoặc cả hai bên là người đang có vợ, có chồng;
- Mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng là hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác khi đang có vợ, có chồng hoặc kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.
- Hậu quả của tội phạm này không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, nếu hậu quả xảy ra thì sẽ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hậu quả của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng là làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn hoặc nghiêm trọng hơn là làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
- Hình phạt của tội phạm vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định tại Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như sau:
- Phạm tội thuộc khoản 1 điều này thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm;
- Phạm tội thuộc khoản 2 điều này thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Trên đây là những phân tích cấu thành tội phạm của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (hay còn được gọi là ngoại tình).
Xem thêm
Khi phụ nữ ngoại tình có con riêng sẽ gặp nhiều rắc rối hơn so với đàn ông
Có thể xây dựng lại niềm tin sau khi ngoại tình không?
Thủ tục tố cáo việc ngoài tình thực hiện như thế nào?