Tình huống:
Chị Nga và anh Hùng kết hôn được 5 năm và có một con gái. Trong thời gian chung sống, anh Hùng thường hay chơi cờ bạc và thua lỗ nhiều tiền. Chị Nga khuyên can nhưng anh Hùng không nghe. Một ngày, chị Nga phát hiện ra anh Hùng đang giấu một khoản tiền lớn trong nhà. Chị Nga nghi ngờ anh Hùng lấy tiền của gia đình đi đánh bạc.
Anh Hùng thừa nhận đó là tiền anh kiếm được từ việc đánh bạc. Chị Nga vô cùng tức giận. Chị cho rằng anh Hùng đang làm tổn hại đến gia đình và con gái của họ nên quyết định ly hôn.
Trong quá trình giải quyết ly hôn, chị Nga yêu cầu chia “quỹ đen” của chồng. Anh Hùng không đồng ý, cho rằng đó là tài sản riêng của anh. Vậy, “qũy đen” kiếm được từ việc đánh bạc, liệu có phải phân chia khi ly hôn?
Trả lời:
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, kinh doanh, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung, thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân và tài sản do vợ, chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung.
Để xác định “quỹ đen” có được tính là tài sản chung khi ly hôn hay không, cần căn cứ vào nguồn gốc hình thành của “quỹ đen” đó. Nếu “quỹ đen” được tạo ra từ các nguồn thu hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân, hình thành từ tài sản chung của vợ chồng thì đó sẽ là tài sản chung của vợ chồng.
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Cụ thể, “quỹ đen” có thể là tài sản chung của vợ chồng nếu được tạo ra từ các nguồn sau:
- Thu nhập do lao động, kinh doanh của vợ, chồng;
- Tiền lương, tiền công, tiền thù lao, tiền thưởng, lợi nhuận phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng;
- Tiền lãi, tiền thu nhập khác phát sinh từ tài sản chung của vợ chồng;
- Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng nhưng được sử dụng vào mục đích chung của gia đình;
- Thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân.
Ngược lại, nếu “quỹ đen” được tạo ra từ các nguồn thu bất hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân, hoặc được tạo ra từ tài sản riêng của vợ, chồng, thì đó sẽ là tài sản riêng của người có thu nhập đó.
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Như vậy, khi chị Nga xác định được nguồn gốc quỹ đen của chồng là phát sinh từ tài sản chung của vợ, chồng thì có cơ sở để yêu cầu tòa án áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 59 Luật hôn nhân & gia đình 2014 để chia tài sản chung.
Xem thêm
Trong thời kỳ hôn nhân chia tài sản chung thì sẽ phát sinh các hậu quả nào?