Hợp đồng hôn nhân hay còn gọi là “hợp đồng tiền hôn nhân” là một loại hợp đồng đặc biệt giữa vợ và chồng được thỏa thuận và xác lập trước khi kết hôn. Hợp đồng tiền hôn nhân nhằm thỏa thuận các vấn đề pháp lý liên quan đến việc phân định tài sản chung, tài sản riêng trong hôn nhân. Tuy vậy, trong thực tế có nhiều trường hợp các cặp vợ chồng lập hợp đồng hôn nhân để thỏa thuận và cam kết về các quyền và nghĩa vụ trong đời sống hôn nhân.
![Hop dong hon nhan ai ngoai tinh se khong duoc nuoi con va phan chia tai san](https://luatsuhonnhangiadinh.com/wp-content/uploads/2023/02/hop-dong-hon-nhan-1024x1024.png)
Chẳng hạn thỏa thuận về nghĩa vụ chung thủy trong hôn nhân, nếu ai vi phạm nghĩa vụ chung thủy, có hành vi ngoại tình thì sẽ không được quyền nuôi con và không được phân chia tài sản. Vậy thỏa thuận này có được pháp luật cho phép không? Có hiệu lực áp dụng khi ly hôn không?
Hiện nay pháp luật Việt Nam chỉ ghi nhận một dạng hợp đồng hôn nhân được gọi là “thỏa thuận tài sản tiền hôn nhân”. Theo đó, đây là một thỏa thuận của hai vợ chồng được xác lập trước thời điểm kết hôn, nội dung chủ yếu là việc phân định tài sản chung và tài sản riêng trong hôn nhân. Để thỏa thuận này có hiệu lực thì phải được lập thành văn bản và được công chứng.
Căn cứ quy định tại Điều 47, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.
Trong thực tế, có nhiều loại hợp đồng hôn nhân được giao kết giữa hai vợ chồng nhằm thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ trong đời sống chung. Nhưng không phải sự thỏa thuận nào cũng được pháp luật công nhận là hợp pháp. Đối với điều khoản ai ngoại tình khi ly hôn sẽ không được quyền nuôi con và chia tài sản, sẽ không được pháp luật công nhận và sẽ không có hiệu lực áp dụng khi ly hôn. Vì thỏa thuận kể trên xâm phạm đến quyền và lợi ích công dân được pháp luật bảo vệ, do đó không thể là căn cứ để tòa án giải quyết ly hôn. Cụ thể là:
-
Xâm phạm đến quyền nuôi con:
Đây vừa là quyền vừa là nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của một người. Căn cứ quy định tại Điều 81, Luật Hôn nhân gia đình 2014 về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Quy định trên cũng đã nêu rõ, sau khi ly hôn thì vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 82, Luật Hôn nhân gia đình 2014, sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con như sau:
1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Như vậy, kể cả sau khi ly hôn, dù không trực tiếp nuôi con thì người cha/mẹ vẫn được đảm bảo đầy đủ các quyền được chăm sóc, thăm nom, giáo dục con cái mà không ai được cản trở. Chỉ trong một số tình huống đặc biệt, người cha/mẹ chỉ bị hạn chế quyền nuôi con khi có phán quyết của tòa án.
-
Xâm phạm đến quyền tài sản:
Nguyên tắc phân chia tài sản chung trong hôn nhân là dựa trên công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Việc vi phạm nghĩa vụ chung thủy không liên quan đến quyền được sở hữu tài sản của một người, do đó không thể dùng để làm căn cứ phủ định đi công sức đóng góp của người đó vào khối tài sản chung.
Trong những trường hợp sau đây, thỏa thuận về tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu:
– Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan;
– Vi phạm nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng;
– Vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
– Vi phạm giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng;
– Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.
Dựa trên các quy định kể trên, có thể nhận thấy điều khoản thỏa thuận người nào ngoại tình sẽ không được quyền nuôi con và không được phân chia tài sản sẽ bị vô hiệu và không được áp dụng khi thực hiện ly hôn.
![☎](https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/t22/1/16/260e.png)
![✉](https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/t37/1/16/2709.png)
![📌](https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/tac/1/16/1f4cc.png)
![](https://luatsuhonnhangiadinh.com/wp-content/uploads/2023/02/Lien-he-Luat-su-Hon-nhan-va-Gia-dinh-ANSG-2.png)
![](https://luatsuhonnhangiadinh.com/wp-content/uploads/2023/02/Lien-he-Luat-su-Hon-nhan-va-Gia-dinh-ANSG-3.png)