Giải quyết tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị tòa án tuyên bố đã chết như thế nào?

Khái niệm về việc một người đã chết hoặc bị tuyên bố là đã chết
Việc xác định một cá nhân chết tại Việt Nam sẽ tuân theo pháp luật Việt Nam. “Chết” là một trạng thái chấm dứt sự sống sinh học của một cá thể. Dưới góc độ sinh học, một người được xác định là đã chết khi không còn hoạt động hô hấp và hoạt động phân bào trong cơ thể đã chấm dứt. Việc một cá nhân chết không chỉ là chấm dứt sự sống mà còn kéo theo đó là chấm dứt các quyền và nghĩa vụ về nhân thân, về tài sản cũng như các quyền và nghĩa vụ dân sự khác của cá nhân đó.
Căn cứ để xác định một cá nhân đã chết:
- Giấy báo tử hoặc giấy tờ thay thế Giấy báo tử hoặc giấy tờ, tài liệu, chứng cứ do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp hoặc xác nhận hợp lệ chứng minh sự kiện chết;
- Quyết định của tòa án tuyên bố một người đã chết.
Căn cứ quy định tại Điều 71 Bộ luật dân sự 2015 về tuyên bố chết
Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:
a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
Căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.
Quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Cũng theo quy định tại Điều 72 Bộ luật dân sự 2015 thì khi quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì quan hệ về hôn nhân, gia đình và các quan hệ nhân thân khác của người đó được giải quyết như đối với người đã chết. Quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết được giải quyết như đối với người đã chết; tài sản của người đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Trường hợp một bên vợ/chồng đã chết thì tài sản sẽ giải quyết như thế nào?
Chiếu theo quy định tại Điều 65 Luật hôn nhân & gia đình 2014 thì hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án.
Giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết sẽ áp dụng theo Điều 66 Luật hôn nhân & gia đình 2014 như sau
- Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
- Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
- Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.
- Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.
Xem thêm
Tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh thì khi ly hôn phân chia như thế nào?
Mẹ qua đời, cha có toàn quyền định đoạt tài sản hay không?
Tài sản riêng của mẹ có phải chia thừa kế cho con riêng của cha dượng?
