Hỏi: Anh A và chị B dọn về sống chung với nhau từ năm 2019 hiện đã được 3 năm, không có đăng ký kết hôn và chưa có con chung. Hai người có một ngôi nhà, một miếng đất, một chiếc xe máy trong thời gian sống chung với nhau. Hiện giờ, anh A và chị B không còn tình cảm và muốn chia tay thì có cần phải làm thủ tục ly hôn không và tài sản chung giữa hai người thì giải quyết như thế nào?
—————
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì để xác lập quan hệ vợ chồng thì nam nữ cần đáp ứng điều kiện kết hôn và tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thêm vào đó tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định rằng việc kết hôn không được đăng ký theo khoản này thì không có giá trị pháp lý. Như vậy trong trường hợp này, pháp luật không công nhận quan hệ hôn nhân giữa anh A và chị B do hai người chung sống với nhau như vợ chồng mà không tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Do đó khi chia tay, anh A và chị B không phải thực hiện thủ tục ly hôn. Bởi lẽ, theo khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định:
“Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”.
Về việc giải quyết tài sản của nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, theo khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định:
“Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.”
Căn cứ quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì:
“1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.”
Như vậy trong trường hợp này, anh A và chị B có thể tự thỏa thuận phân chia tài sản ở đây là một ngôi nhà, một miếng đất, một chiếc xe máy. Nếu như không có thỏa thuận thì việc giải quyết số tài sản nói trên sẽ theo quy định tại Điều 219 Bộ Luật dân sự 2015, cụ thể:
“1. Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.”