1. Tranh chấp liên quan đến việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giải quyết tại đâu?
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 99 Luật hôn nhân & gia đình 2014 về giải quyết tranh chấp liên quan đến việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, theo đó:
“Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ.”
Cũng căn cứ theo khoản 6 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
2. Trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì giải quyết thế nào?
Theo quy định của Bộ luật dân sự hiện hành thì cha đẻ, mẹ đẻ được quy định trong Bộ luật này là cha, mẹ được xác định dựa trên sự kiện sinh đẻ; người nhờ mang thai hộ với người được sinh ra từ việc mang thai hộ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Do đó, có thể hiểu trẻ được sinh ra từ việc mang thai hộ được xác định cha mẹ mặc nhiên là người nhờ mang thai hộ.
Trong trường hợp chưa giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ mà bên nhờ mang thai hộ chết hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự thì quyền nuôi đứa trẻ được giải quyết như thế nào?
Căn cứ theo khoản 2 Điều 99 Luật hôn nhân & gia đình 2014 thì trong trường hợp chưa giao đứa trẻ mà cả hai vợ chồng bên nhờ mang thai hộ chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì bên mang thai hộ có quyền nhận nuôi đứa trẻ; nếu bên mang thai hộ không nhận nuôi đứa trẻ thì việc giám hộ và cấp dưỡng đối với đứa trẻ được thực hiện theo quy định của Luật này và Bộ luật dân sự.
Như vậy, khi chưa giao đứa trẻ mà hai vợ chồng bên nhờ mang thai hộ chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì:
- Người đang mang thai hộ có quyền nhận nuôi đứa trẻ;
- Nếu người mang thai hộ không nhận nuôi đứa trẻ thì sẽ do người giám hộ của đứa trẻ nhận nuôi dưỡng và thực hiện cấp dưỡng.
Căn cứ theo quy định tại điểm a, b Điều 47 Bộ luật dân sự 2015 về đối tượng cần được giám hộ là người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp kể trên, trẻ sinh ra từ việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhưng cha mẹ đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì thuộc đối tượng người chưa thành niên cần được giám hộ.
Việc xác định người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên tuân theo quy định tại Điều 52 Bộ luật dân sự 2015, theo đó người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật này được xác định theo thứ tự sau đây:
- Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ;
- Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 Điều này thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ;
- Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.
Xem thêm
Người nhờ mang thai hộ mất thì người mang thai hộ có đương nhiên trở lại thành mẹ không?