Kết hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài được quy định trong luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
Về việc kết hôn có yếu tố nước ngoài
Được quy định tại Điều 126, Luật HN&GĐ 2014 như sau:
- Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn. Nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn.
Điều này có nghĩa là với hôn nhân của người Việt Nam với người nước ngoài, muốn được công nhận tại Việt Nam thì phải đảm bảo việc kết hôn thỏa mãn đúng các điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 8, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, theo đó:
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn như: Kết hôn giả tạo, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn; Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác; Kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
Ví dụ: Công dân Việt Nam muốn kết hôn đồng giới với công dân Mỹ, nhưng Việt Nam theo luật Hôn nhân & Gia đình 2014, cuộc hôn nhân này không thỏa mãn đủ điều kiện để kết hôn, vì thế sẽ không được công nhận.
- Việc kết hôn giữa những người nước ngoài thường trú ở Việt Nam tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn.
Đối với việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau, thường trú tại Việt Nam và đăng ký kết hôn tại Việt Nam cũng phải thỏa mãn các điều kiện kết hôn theo luật Việt Nam.
Về việc ly hôn có yếu tố nước ngoài
Được quy định tại Điều 127, Luật HN&GĐ 2014 như sau:
- Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của Luật này.
Ví dụ: Vợ Việt Nam ly hôn với chồng Nhật Bản, người vợ đang cư trú tại Việt Nam thì có thể nộp đơn lên tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi mình cư trú để yêu cầu xử lý ly hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú ở Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì giải quyết theo pháp luật Việt Nam.
Ví dụ: Vợ Việt Nam ly hôn với chồng Canada, nếu hai người đang cùng thường trú tại Canada thì có thể yêu cầu ly hôn theo pháp luật Canada.
- Việc ly hôn giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của Luật này.
- Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.
Ví dụ: Khi vợ chồng ly hôn, nếu có tranh chấp tài sản là bất động sản tại Việt Nam thì xử lý theo pháp luật Việt Nam, nếu có bất động sản tại nước ngoài thì xử lý theo pháp luật của nước đó.